Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 5, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã có bài tham luận “Lành mạnh hóa thị trường tài chính Việt Nam để phát triển kinh tế bền vững – Thực tiễn năm 2022 và những vấn đề đặt ra năm 2023”, cho thấy bức tranh chung của kinh tế Việt Nam 2022-2023 trên nền của tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt là về những rủi ro, thách thức đối với thị trường tài chính. Kinh tế Sài Gòn xin trích giới thiệu.
Kinh tế thế giới 2022-2023
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự báo giảm mạnh từ 6% năm 2021 xuống khoảng 3% năm 2022 và 2,2-2,7% năm 2023; nhiều nền kinh tế như Mỹ, châu Âu phải đối mặt với rủi ro suy thoái trong năm 2023.
Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 10-2022), tăng trưởng GDP của các nền kinh tế phát triển trong năm 2022 và 2023 lần lượt là 2,4% và 1,1% (trong đó, tăng trưởng GDP Mỹ lần lượt là 1,6% và 1%; châu Âu là 3,1% và 0,5%; Nhật Bản là 1,7% và 1,6%…); của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển trong năm 2022 và 2023 lần lượt là 3,7% và 3,7% (trong đó, tăng trưởng GDP Trung Quốc lần lượt là 3,2% và 4,4%; Ấn Độ là 6,8% và 6,1%…).
Trong khi đó, dự báo lạm phát (CPI) toàn cầu năm 2022 tăng 8,8% (tại các nước phát triển là 7,2% và tại các nước mới nổi và đang phát triển là 9,9%), trước khi giảm xuống mức 6,5% năm 2023 và khoảng 4% năm 2024.
Năm 2023, sáu rủi ro, thách thức chính mà kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phải đối mặt bao gồm: (i) Dịch Covid-19 và các dịch bệnh khác diễn biến phức tạp, khó lường; (ii) Rủi ro địa chính trị và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn còn hiện hữu;
iii) Kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng chậm; (iv) Lạm phát còn ở mức cao, áp lực lãi suất, tỷ giá tăng còn diễn ra (ít nhất là hết quí 2-2023), khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và có nguy cơ rơi vào tình trạng suy thoái ngắn hạn ở một số quốc gia;
(v) Thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu bất thường ảnh hưởng tới khả năng phục hồi kinh tế; và (vi) Rủi ro tài chính (nợ công, nợ doanh nghiệp và hộ gia đình, thanh khoản thị trường tài chính…) ở mức cao khi lãi suất còn cao và tỷ giá chưa giảm nhiều.
Và kinh tế Việt Nam…
Năm 2022, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đã và đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tám kết quả tích cực: (i) Dịch bệnh về cơ bản được kiểm soát tốt, tạo điều kiện thuận lợi để hồi phục mọi hoạt động kinh tế – xã hội từ tháng 3-2022; (ii) Kinh tế phục hồi mạnh mẽ với sản xuất công nghiệp (IIP) dự báo cả năm tăng khoảng 10% so với năm trước;
(iii) Tiêu dùng phục hồi nhanh với doanh thu bán lẻ tăng khoảng 15-16%; (iv) Xuất, nhập khẩu tăng trưởng tích cực, trong đó, xuất khẩu năm 2022 ước đạt 380-384 tỉ đô la Mỹ, tăng khoảng 14%, cán cân thương mại thặng dư (khoảng 10 tỉ đô la), góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá và các cân đối vĩ mô khác; (v) Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục khả quan, ước đạt 21-22 tỉ đô la, tăng 13% so với năm trước;
(vi) Thu – chi ngân sách đạt kết quả tích cực nhờ kinh tế phục hồi; trong đó ước thu ngân sách cả năm 2022 vượt 14% kế hoạch đề ra và tăng mạnh 20% so với cùng kỳ năm 2021, giúp ngân sách nhà nước thặng dư (một phần là do chi đầu tư phát triển còn ở mức thấp so với kế hoạch);
(vii) Lãi suất và tỷ giá tăng mạnh song vẫn trong tầm kiểm soát; dự báo tỷ giá năm 2022 tăng khoảng 8-9% so với đầu năm (trong bối cảnh đô la Mỹ tăng giá – chỉ số DXY đã tăng khoảng 12% so với đầu năm); (viii) Hoạt động doanh nghiệp phục hồi mạnh, nhờ các hoạt động kinh tế – xã hội được mở rộng; dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức khi lãi suất, tỷ giá tăng, khả năng tiếp cận vốn khó khăn hơn và nhu cầu bên ngoài suy giảm.
Tăng trưởng GDP năm 2022 ước đạt khoảng 8%; lạm phát được kiểm soát tốt, với CPI bình quân dự báo tăng khoảng 3,3%.
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với sáu khó khăn, thách thức chính: (i) Môi trường quốc tế đang kém thuận lợi; một số khu vực, quốc gia, đặc biệt là các đối tác kinh tế lớn của Việt Nam có thể rơi vào suy thoái nhẹ, làm giảm lực cầu xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch quốc tế;
(ii) Giải ngân đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023 vẫn còn chậm; (iii) Áp lực lạm phát, tỷ giá, lãi suất còn tăng và vẫn là thách thức lớn trong năm 2023;
(iv) Nợ xấu tiềm ẩn có thể gia tăng trong thời gian tới; (v) Rủi ro trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), bất động sản và thanh khoản hệ thống ngân hàng chưa giảm rõ rệt; (vi) Thị trường lao động xuất hiện dấu hiệu đáng lo ngại.
Năm 2023, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và một số nước có thể rơi vào suy thoái cục bộ, ngắn hạn và so với mức nền cao của năm 2022, dự báo GDP Việt Nam tăng trưởng chậm lại, nhưng vẫn đứng ở mức khá, khoảng 6-6,5% (kịch bản cơ sở); trong đó, xuất khẩu dự báo tăng khoảng 8-10%, đầu tư (trong và ngoài nước) tăng khoảng 8%, tiêu dùng cuối cùng tăng khoảng 9-10%.
Về lạm phát, dự báo CPI bình quân năm 2023 sẽ ở mức 4-4,5% do có độ trễ vì nhập khẩu nhiều, lượng cung tiền lớn hơn theo thời vụ cuối năm 2022; và năm tới cũng là thời điểm phải chấp nhận tăng giá một số mặt hàng/dịch vụ do Nhà nước quản lý (lương cơ bản, điện, y tế, giáo dục…).
Áp lực lãi suất, tỷ giá tăng vẫn còn lớn và đang là thách thức đối với điều hành kinh tế vĩ mô; thu ngân sách cũng sẽ khó khăn hơn do doanh nghiệp còn nhiều rào cản, thách thức.
Rủi ro, thách thức đối với thị trường tài chính Việt Nam
Bên cạnh tác động của sáu rủi ro, thách thức từ môi trường quốc tế cũng như nội tại nền kinh tế Việt Nam đã nêu ở trên, thị trường tài chính Việt Nam đang và sẽ đối diện với những rủi, thách thức đặc thù sau:
Đối với thị trường ngân hàng:
Thứ nhất, việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023 chậm; việc ban hành một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chậm. Tính đến hết tháng 10-2022, gói hỗ trợ lãi suất mới chỉ giải ngân được khoảng 23/16.035 tỉ đồng phân bổ năm 2022.
Thứ hai, dư địa chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp. Đến hết tháng 11-2022, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải tăng lãi suất hai đợt (1 điểm phần trăm mỗi đợt) để ổn định tỷ giá, trong khi các công cụ khác gần như đã sử dụng hết dư địa. Dự trữ ngoại hối hiện nay vừa mức khuyến nghị của IMF (ba tháng nhập khẩu).
Cùng với đó, việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng/giảm sẽ không đạt hiệu quả như kỳ vọng vì các ngân hàng thương mại (NHTM) còn phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo Thông tư 22/2019 của NHNN và biện pháp này thường áp dụng khi nền kinh tế gặp các cú sốc lớn. Biên độ giao dịch tỷ giá trung tâm cũng đã nới lên mức 5%…
Do vậy, với khả năng Fed tiếp tục tăng lãi suất 50 điểm phần trăm trong tháng 12-2022 và quí 1-2023, áp lực lãi suất và tỷ giá tăng còn khá lớn.
Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong năm 2022-2023 để kiểm soát lạm phát mục tiêu và thanh khoản hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh thị trường TPDN ảm đạm, giải ngân đầu tư công còn chậm, khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn khó khăn.
Thứ ba, hệ số an toàn vốn (CAR) của các NHTM Việt Nam cải thiện chậm và ở mức thấp so với khu vực. Tính đến tháng 6-2022, xét các ngân hàng áp dụng Thông tư 41/2016, CAR của các NHTM nhà nước giảm nhẹ so với cuối năm 2021 từ mức 9% xuống 8,9%;
ngược lại, các NHTM tư nhân tăng từ 11,9% lên 12%, và mức này tương đối thấp khi so sánh với các nước trong khu vực; chưa kể các nước trong khu vực đã áp dụng Basel 3 hoặc một phần của Basel 3, trong khi các NHTM Việt Nam mới đang trong giai đoạn triển khai Basel 2. Mức đệm vốn của các ngân hàng ở mức thấp làm hệ thống ngân hàng dễ bị tác động tiêu cực bởi các cú sốc bất lợi từ môi trường kinh doanh.
Thứ tư, dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Triển vọng năm 2023, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.
Dự báo, năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.
Thứ năm, tuy sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng đã cơ bản được loại bỏ, nhưng có hiện tượng cổ đông, nhóm cổ đông lớn gây tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Mặc dù khó có thể đưa ra bằng chứng xác thực về hành vi này nhưng những vụ việc vi phạm của một số tập đoàn bất động sản vừa qua đã bộc lộ tính chất liên quan này.
Thứ sáu, thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như hai năm qua. Sau giai đoạn giảm liên tiếp từ mức 34,5% năm 2016 xuống 24% năm 2021, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn của hệ thống tăng dần lên mức 25,2% vào tháng 6-2022; tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động vốn tăng từ 72,1% năm 2021 lên 74,1% vào tháng 6-2022.
Đồng thời, tài sản mang tính thanh khoản cao như tiền gửi của TCTD tại NHNN giảm; trong chín tháng đầu năm 2022, các NHTM rút mạnh tiền gửi tại NHNN với tổng lượng tiền gửi tại NHNN của 28 NHTM quan sát là 176.000 tỉ đồng, giảm 48% so với đầu năm.
Tín dụng tăng cao trong năm 2022 so với năm 2020-2021 trong xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Tính đến ngày 30-11-2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế là 12,2%, cao hơn mức 11,5% cùng kỳ năm 2021. Trong khi đó, huy động vốn năm 2022 của TCTD tăng chậm lại so với năm 2020- 2021, do dòng tiền đổ vào sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và trang trải chi phí đầu vào tăng.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 11-2022, huy động vốn của các TCTD ước tăng 5,5%, thấp hơn cùng kỳ năm trước (6%); theo đó, cung tiền M2 chỉ tăng khoảng gần 7%, thấp so với mức 9% cùng kỳ năm 2021.
Thứ bảy, tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu nhập ròng chưa có dấu hiệu cải thiện trong năm 2022 và ở mức thấp so với các nước trên thế giới. Tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu nhập ròng tăng dần trong giai đoạn 2019-2021, song lại sụt giảm trong chín tháng đầu năm 2022, chỉ ở mức khoảng 10,5%, thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Thứ tám, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn – nguồn vốn chi phí thấp đang có xu hướng giảm trong năm 2022.
Đối với thị trường cổ phiếu:
Thứ nhất, dòng tiền vào thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sụt giảm mạnh so với hai năm trước. Hiện tượng này là do hầu hết những dòng tiền chính đổ vào TTCK Việt Nam thời gian qua đều giảm.
Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài không còn được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ dễ dàng như trước do các gói hỗ trợ đã chấm dứt, lãi suất thấp đã không còn, thanh khoản thị trường tài chính toàn cầu eo hẹp hơn và hệ thống ngân hàng toàn cầu cũng thắt chặt điều kiện cho vay do e ngại rủi ro suy thoái, rủi ro tài chính toàn cầu tăng lên.
Bên cạnh đó, lượng vốn dành cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong nước bị giảm đi đáng kể. Nhà đầu tư cá nhân cũng hạn chế vay ký quỹ để đầu tư chứng khoán
Thứ hai, TTCK chịu áp lực giải chấp. Dù dư nợ cho vay ký quỹ đã giảm 18% từ mức đỉnh cuối quí 1-2022 (201.200 tỉ đồng) song vẫn là mức cao trong vòng hai năm 2020-2021 (cao hơn giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh).
Việc giá cổ phiếu giảm mạnh đã dẫn đến việc một số nhà đầu tư sở hữu nhiều cổ phiếu bị các công ty chứng khoán bán giải chấp (hiện tượng force sell) để bù đắp phần sụt giảm của giá cổ phiếu dùng thế chấp cho các khoản vay ký quỹ, cũng là để hạ tỷ lệ nợ về mức an toàn theo quy định.
Thứ ba, niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán giảm mạnh. Bên cạnh những tác động tiêu cực từ bối cảnh kinh tế thế giới cũng như rủi ro, thách thức gia tăng; tâm lý nhà đầu tư còn chịu ảnh hưởng từ những vụ việc vi phạm pháp luật, khởi tố, bắt tạm giam lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn, cùng các biện pháp chấn chỉnh TTCK và bất động sản trong thời gian qua, và một số thông tin sai sự thật trên mạng xã hội.
Việc xử lý, giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản pháp lý còn chậm cũng có tác động nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư. Nhiều nhà đầu tư đang bắt đầu dịch chuyển sang những kênh đầu tư ít rủi ro hơn như tiền gửi ngân hàng (đặc biệt trong bối cảnh lãi suất huy động đang tăng lên), dẫn đến việc thanh khoản thị trường sụt giảm, từ đó tạo ra vòng xoáy tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư cá nhân và kéo giá cổ phiếu tiếp tục giảm sâu.
Thứ tư, tâm lý đám đông khá phổ biến trên TTCK. Tác động của tâm lý đám đông lên TTCK Việt Nam đặc biệt mạnh hơn so với những quốc gia phát triển khác do ba nguyên nhân sau: (i) Cơ cấu nhà đầu tư ở Việt Nam có điểm khác biệt khi nhóm nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 80% giao dịch trên thị trường (trong khi tỷ lệ này ở những quốc gia phát triển chỉ khoảng 40-50%, còn lại là nhà đầu tư tổ chức).
Đặc điểm của nhóm nhà đầu tư cá nhân này là họ đưa ra quyết định đầu tư không dựa trên lý trí hay phân tích tài chính, mà mua bán chủ yếu theo tin đồn, và một lượng lớn nhà đầu tư không có hiểu biết về tài chính;
(ii) Tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính cao, cộng hưởng cùng tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư, đã tạo ra vòng xoáy giá xuống – bán giải chấp, khiến thị trường càng chịu áp lực bán mạnh mỗi khi có sự điều chỉnh;
iii) TTCK Việt Nam lâu nay đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp thổi giá, giá cổ phiếu cao hơn nhiều lần giá trị thực, khiến nhà đầu tư có tâm lý không coi trọng những đánh giá, phân tích khách quan, do vậy họ thường xuyên chuyển đổi trạng thái rất nhanh từ “hưng phấn quá mức” đến “bi quan quá đà” mỗi khi thị trường có điều chỉnh.
Đối với thị trường TPDN:
Với quy mô phát hành lớn trong giai đoạn 2018-2021 và thời hạn khoảng bốn năm thì sẽ có một khối lượng TPDN đáng kể sẽ đáo hạn trong giai đoạn 2023- 2025 (khoảng hơn 700.000 tỉ đồng, chưa tính tiền lãi).
Hai nhóm ngành phát hành TPDN nhiều nhất là NHTM và bất động sản. Trong đó, TPDN được phát hành bởi các NHTM hầu như rất ít rủi ro, do đặc thù riêng.
Các doanh nghiệp bất động sản đã phát hành gần 215.000 tỉ đồng TPDN năm 2021 và 50.000 tỉ đồng TPDN trong 10 tháng đầu năm 2022, với lãi suất trung bình là 10,35%/năm (theo VBMA). Theo đó, lượng trái phiếu đáo hạn của các doanh nghiệp bất động sản cũng rất lớn, nhất là hai năm tới (khoảng 115.000 tỉ đồng/năm, chưa tính tiền lãi).
Để giải quyết vấn đề này, nếu như trong điều kiện thông thường, các doanh nghiệp sẽ tìm nguồn vốn mới (từ phát hành TPDN, vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu…) để đảo nợ và duy trì, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, khả năng gọi vốn của các doanh nghiệp trong thời gian tới sẽ còn khó khăn do: (i) Những vụ vi phạm pháp luật liên tiếp đã làm niềm tin của các nhà đầu tư suy giảm đáng kể; (ii) Nghị định 65/2022 đã đưa ra những quy định chặt chẽ hơn đối với phát hành TPDN riêng lẻ;
(iii) Nguồn vốn tín dụng dành cho đối tượng này là không nhiều do phải ưu tiên cho sản xuất, kinh doanh và trong bối cảnh hạn mức tăng trưởng tín dụng vẫn chỉ khoảng 14-15% để kiểm soát lạm phát và thanh khoản hệ thống TCTD; (iv) TTCK không còn sôi động như giai đoạn trước, nên huy động vốn qua kênh này khó khăn;
(v) Việc bán hàng, phát mại tài sản để trả nợ cũng không dễ dàng (do thị trường bất động sản đang trầm lắng, phục hồi chậm). Vì thế, một bộ phận doanh nghiệp (nhất là lĩnh vực bất động sản) tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ trái phiếu, nếu không có giải pháp phù hợp, kịp thời.
Khi đó, hệ lụy của việc vỡ nợ này là lớn, phức tạp, cần kiểm soát vì mối quan hệ liên thông giữa ngân hàng – chứng khoán – bất động sản là khá lớn (NHTM cho vay bất động sản – khoảng 2,36 triệu tỉ đồng, chiếm 21% tổng dư nợ của nền kinh tế; nhiều tài sản bảo đảm tín dụng là bất động sản – chiếm khoảng 65%; NHTM đầu tư vào TPDN – số dư khoảng 284.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 2,3% tổng dư nợ của các TCTD;
NHTM niêm yết trên TTCK với tỷ trọng vốn hóa thường chiếm khoảng 23-25% và NHTM phát hành trái phiếu như nêu trên; doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên TTCK với tỷ trọng vốn hóa thường chiếm khoảng 15-16%, phát hành cổ phiếu và TPDN như nêu trên…).
Theo Kinh tế Sài Gòn